Hiện cả nước có trên 80.000 người lao động (NLĐ) nước ngoài, trong đó đa số đã được cấp giấy phép lao động. Do vậy, việc áp dụng chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH) đối với NLĐ là công dân nước ngoài làm việc ở Việt Nam sẽ mở ra cơ hội tiếp cận thêm các chế độ BHXH của quốc gia mà NLĐ đến làm việc.
Luật BHXH năm 2014 quy định, đối với NLĐ là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam được tham gia BHXH bắt buộc, bảo hiểm y tế (BHYT), BH thất nghiệp, BH tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, quy định này có hiệu lực từ ngày 1/1/2018. Bên cạnh đó, Nghị định 143/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết Luật BHXH và Luật An toàn, vệ sinh lao động về BHXH bắt buộc đối với NLĐ là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Theo đó, NLĐ là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc khi có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp và có hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ một năm trở lên với người sử dụng lao động tại Việt Nam. Những người không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, gồm: Di chuyển trong nội bộ DN theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 của Nghị định 11; NLĐ đã đủ tuổi nghỉ hưu theo Khoản 1 Điều 187 của Bộ luật Lao động.
Về vấn đề mức đóng và phương thức đóng, người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng BHXH bắt buộc trên quỹ tiền lương tháng đóng BHXH của NLĐ bao gồm: 3% vào quỹ ốm đau, thai sản; 0,5% vào quỹ tai nạn lao động. Từ ngày 1/1/2020, ngoài việc đóng vào quỹ ốm đau thai sản; quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì hàng tháng người sử dụng lao động đóng 14%; NLĐ là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam đóng bằng 8% mức tiền lương tháng vào quỹ hưu trí và tử tuất. Còn đối với trường hợp NLĐ nước ngoài nữ trên 55 tuổi, nam trên 60 tuổi ở các DN nếu còn hợp đồng lao động, vẫn đóng BHYT, BHXH, BH thất nghiệp bình thường.
Tác giả: HÀ NGÂN
Nguồn tin: Báo Kinh tế & Đô thị