Giáo dục

Việt Nam xếp thứ 29/126 quốc gia chi tiêu nhiều cho giáo dục

Chỉ số đổi mới sáng tạo (ĐMST) của Việt Nam trên bảng xếp hạng toàn cầu theo báo cáo của WIPO (Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới) liên tục thăng hạng trong những năm gần đây. Đặc biệt sự đầu tư cho giáo dục cao góp phần đáng kể vào sự thăng hạng này.

Thí sinh nghe quy chế trước kỳ thi THPT quốc gia

Trong những năm gần đây, chỉ số ĐMST của Việt Nam liên tục tăng hạng. Cụ thể Việt Nam xếp thứ 71 năm 2014; 59 năm 2016; 47 năm 2017 và 45 năm 2018. Đây là thứ hạng cao nhất mà Việt Nam đạt được từ trước tới nay và có thể nói là cột mốc đánh dấu sự tăng trưởng vượt bậc về các hoạt động ĐMST quốc gia.

Cũng theo theo báo cáo của WIPO, nếu so sánh với thứ hạng GDP thì xếp hạng ĐMST quốc gia của Việt Nam có sự vượt trội hơn hẳn. Với 37,94/100 điểm, Việt Nam đứng thứ 45/126 Quốc gia về chỉ số đổi mới sáng tạo, tỷ lệ ĐMST hiệu quả đạt 0,8 (xếp hạng 16). Riêng trong nhóm thu nhập trung bình thấp, chỉ số ĐMST của Việt Nam xếp thứ 2, trên Moldova, Ấn Độ và Mông Cổ

Báo cáo CSĐM (Global Innnovation Index, hay còn gọi là GII 2018) chỉ ra một yếu tố quan trọng khiến Việt Nam đạt được thứ hạng cao là sự đầu tư cho giáo dục trong những năm gần đây. Cụ thể, Việt Nam đã đứng đầu 2 năm liền (2017 và 2018) về chi tiêu cho giáo dục trong số các quốc gia ASEAN. Đây rõ ràng là đóng góp lớn của ngành giáo dục đối với tăng trưởng về ĐMST quốc gia khi chi tiêu cho giáo dục tính theo GDP là 5,7% - xếp thứ 29/126.

Việt Nam xếp thứ 18/126 quốc gia về giáo dục cũng trong Báo cáo GII 2018. Sự đầu tư cho giáo dục không chỉ thể hiện ở việc đẩy mạnh chi tiêu chung, mà đặc biệt thể hiện qua việc đẩy mạnh hoạt động đào tạo nguồn nhân lực gắn với nghiên cứu khoa học (NCKH).

Sau hơn 4 năm thực hiện yêu cầu “nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu và chuyên gia giáo dục” số lượng và chất lượng các nhà khoa học đều tăng. Số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ và thạc sĩ tăng dần qua các năm. Cụ thể, từ 2012 tới 2017, số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ tăng từ 14,4% lên 21,8%, giảng viên có trình độ thạc sĩ tăng từ 47% lên 59,4% qua các năm. Đồng thời giảng viên có trình độ khác giảm dần cả về con số tuyệt đối lẫn tỉ lệ % (giảm từ 38,6% xuống còn 18,6%).

Năm 2018 có 02 trường đại học Việt Nam vào top 1000 trường đại học trên thế giới theo xếp loại của QS. Tổ chức giáo dục Quacquarelli Symonds (QS) (Anh) vừa công bố kết quả bảng xếp hạng QS ASIA 2018-2019 cho 505 trường đại học hàng đầu Châu Á. Theo thống kê của QS, với tổng số 505 cơ sở giáo dục đại học tham gia xếp hạng, cùng vị trí xếp hạng mới, Trường ĐHBK Hà Nội thuộc tốp 52% các trường trong danh sách. Năm nay, theo công bố, ĐHQG Hà Nội đứng thứ 1 Việt Nam, ĐHQG TP Hồ Chí Minh (thứ 2), Trường ĐHBK Hà Nội ở vị trí thứ 3 (ở vị trí 261-270, vươn lên 30 bậc so với năm 2018), kế đến là trường ĐH Tôn Đức Thắng, Trường ĐH Cần Thơ, ĐH Đà Nẵng và ĐH Huế.

Như vậy, có thể thấy, cùng với việc thăng hạng trên các bảng xếp hạng trường ĐH của Quốc tế, tỷ lệ giảng viên có trình độ Tiến sĩ trở lên, tốc độ tăng cường nghiên cứu khoa học gắn với đào tạo là những chỉ số minh chứng về chất lượng, vị thế của GD ĐH Việt Nam. Hội nhập sâu hơn với GD ĐH thế giới.

Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innnovation Index, hay còn gọi là GII) được Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (World Intellectual Property Organization – WIPO) phối hợp xây dựng cùng trường Kinh doanh INSEAD, Pháp – một trong số các trường kinh doanh tốt nhất thế giới và Đại học Cornell[i], Hoa Kỳ - top 20 đại học tốt nhất thế giới theo xếp hạng QS và Times Higher Education (THE).

Báo cáo GII là bộ công cụ xếp hạng năng lực đổi mới sáng tạo (ĐMST) các quốc gia và nền kinh tế với việc tính toán 4 chỉ số chính: chỉ số đầu vào ĐMST, chỉ số đầu ra ĐMST, tỉ lệ ĐMST hiệu quả và điểm GII tổng thể.

Tác giả: MAI KHÔI

Nguồn tin: Báo Tuổi trẻ Thủ đô

BÀI MỚI ĐĂNG

TOP