Trong nước

Quốc hội giám sát liên quan đến 21 lĩnh vực

Sáng 6/11, Tổng thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường báo cáo tóm tắt tổng hợp nội dung thẩm tra của các cơ quan của Quốc hội về việc thực hiện một số nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn.

Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường phát biểu tại hội trường.

10 Nghị quyết được giám sát

Tổng thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường cho biết, tại kỳ họp này, Quốc hội sẽ tiến hành giám sát việc thực hiện 10 Nghị quyết trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV và từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV đến Kỳ họp thứ 4 về giám sát chuyên đề và chất vấn, liên quan tới 21 lĩnh vực, trong đó, có một số lĩnh vực được Quốc hội quan tâm, tiến hành giám sát nhiều lần.

Các lĩnh vực kế hoạch và đầu tư; tài chính; lao động, thương binh và xã hội; nội vụ (có 2 nghị quyết chất vấn và 1 nghị quyết giám sát chuyên đề). Lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội (có 1 nghị quyết chất vấn và 2 nghị quyết giám sát chuyên đề). Lĩnh vực tài nguyên và môi trường (có 1 nghị quyết chất vấn và 1 nghị quyết giám sát chuyên đề).

Các lĩnh vực giáo dục và đào tạo; y tế; giao thông vận tải; nông nghiệp và phát triển nông thôn; xây dựng; ngân hàng; thông tin và truyền thông; thanh tra (có 2 nghị quyết chất vấn). Ngoài ra, có một số lĩnh vực được giám sát thông qua 1 trong 10 nghị quyết, gồm: công thương; văn hóa, thể thao và du lịch; khoa học và công nghệ; tư pháp; tòa án; kiểm sát; kiểm toán.

Báo cáo của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Kiểm toán nhà nước đánh giá việc thực hiện đã bám sát các nội dung trong nghị quyết của Quốc hội, đã khái quát những kết quả đạt được, một số hạn chế, bất cập trong việc thực hiện các nghị quyết về giám sát chuyên đề và chất vấn, chỉ ra được nguyên nhân và xác định các giải pháp cụ thể để tiếp tục thực hiện trong thời gian tới.

Bên cạnh đó, một số báo cáo gửi đến các cơ quan của Quốc hội để thẩm tra bổ sung còn chậm so với thời hạn yêu cầu, một số nội dung trong báo cáo chủ yếu liệt kê các công việc đã triển khai trong thời gian qua mà chưa có sự đánh giá, phân tích, so sánh về hiệu quả, cũng như đánh giá sự chuyển biến từ khi triển khai các yêu cầu, giải pháp nêu trong nghị quyết của Quốc hội; chưa nêu rõ những nhiệm vụ đã hoàn thành, những nhiệm vụ chưa hoàn thành, những nhiệm vụ đang trong quá trình triển khai thực hiện theo yêu cầu; một số tồn tại, hạn chế, nhiệm vụ, giải pháp còn chung chung, chưa gắn với quá trình tổ chức thực hiện; chưa làm rõ được trách nhiệm của tổ chức, cá nhân liên quan.

Đã tháo gỡ được nhiều khó khăn, vướng mắc về đầu tư công

Tổng thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường cho biết, thời gian qua, Chính phủ, các Bộ, ngành đã tích cực, chủ động triển khai nhiều giải pháp để thực hiện nghiêm các nghị quyết của Quốc hội, tạo sự chuyển biến tích cực trong một số lĩnh vực, được đại biểu Quốc hội, cử tri, Nhân dân, dư luận xã hội ghi nhận, đánh giá cao; trong đó, đã đạt được một số kết quả nổi bật.

Trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư đã tháo gỡ được nhiều khó khăn, vướng mắc về đầu tư công; khắc phục tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải, kéo dài; tập trung đầu tư các dự án quan trọng quốc gia, các công trình trọng điểm tạo sự lan tỏa, kết nối liên vùng. Việc triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội đã phát huy hiệu quả,kịp thời bổ sung nguồn lực lớn hỗ trợ nền kinh tế phục hồi, làm giảm bớt khó khăn của người dân, doanh nghiệp,nhiều chỉ số quan trọng được cải thiện đáng kể.

Trong lĩnh vực tài chính, việc cân đối ngân sách nhà nước được bảo đảm; kỷ luật, kỷ cương tài chính, quản lý tài sản công được nâng cao; công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí có nhiều chuyển biến.

Trong lĩnh vực ngân hàng, các chính sách tiền tệ được thực hiện chủ động, linh hoạt, kết hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác; việc xử lý sở hữu chéo, đầu tư chéo khá hiệu quả, tình trạng thao túng ngân hàng từng bước được kiểm soát; việc xử lý nợ xấu đạt kết quả tích cực; tín dụng tăng trưởng khá, chất lượng tín dụng được cải thiện.

Trong lĩnh vực Công Thương, các Quy hoạch ngành quốc gia trong lĩnh vực năng lượng, khoáng sản được ban hành; các giải pháp bảo đảm cung ứng điện được quan tâm thực hiện. Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa được quan tâm, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong xúc tiến thương mại. Việc kiểm tra, xử lý vi phạm về buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả đạt kết quả tích cực.
Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, Quy hoạch Phòng, chống thiên tai và thủy lợi,các Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới đã được ban hành. Hệ thống cơ quan quản lý chuyên ngành thú y các cấp được sắp xếp củng cố từ Trung ương đến các địa phương.

Các cơ quan của Quốc hội đánh giá, trong lĩnh vực giao thông vận tải đã ban hành đầy đủ các quy hoạch ngành quốc gia trong lĩnh vực giao thông vận tải. Tiến độ triển khai các dự án, công trình giao thông quan trọng quốc gia cơ bản đáp ứng yêu cầu; việc triển khai thu phí không dừng đã thực hiện theo yêu cầu. Công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông được tăng cường.

Trong lĩnh vực xây dựng, công tác rà soát, hoàn thiện pháp luật được triển khai, thực hiện; từng bước hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật xây dựng; các đề án, chương trình quản lý, phát triển đô thị được tích cực triển khai. Nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy thị trường bất động sản, nhà ở được triển khai và đạt được kết quả ban đầu.

Trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường, chính sách, pháp luật về đất đai đang được hoàn thiện; đã ban hành một số quy chuẩn quốc gia về môi trường. Công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt đã có sự chuyển biến, góp phần giảm thiểu nguy cơ gây ô nhiễm môi trường…

Hoàn thiện pháp luật về cơ cấu lại tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu còn chậm

Bên cạnh kết quả, báo cáo của Tổng thư ký Quốc hội cũng nêu không ít hạn chế trong việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn theo từng lĩnh vực.

Đối với lĩnh vực kế hoạch và đầu tư, tỷ lệ các quy hoạch cần hoàn thành còn thấp, tiến độ lập các quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh vẫn còn chậm so với yêu cầu tại Nghị quyết số 41/2021/QH15 và Nghị quyết số 61/2022/QH15. Việc triển khai một số nhiệm vụ thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội còn chậm, tỷ lệ giải ngân thấp.

Đối với lĩnh vực tài chính, chưa ban hành được Quy hoạch tổng thể hệ thống kho dự trữ quốc gia thời kỳ 2021 -2030, tầm nhìn đến năm 2050; tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp còn chậm; việc thu từ cổ phần hóa, thoái vốn đạt rất thấp. Số vay để đảo nợ có xu hướng ngày càng cao; tình trạng vi phạm trong quản lý, sử dụng tài sản công diễn ra khá phổ biến, đặc biệt trong công tác đấu thầu, mua sắm tài sản công. Việc rà soát, chấn chỉnh, khắc phục tồn tại, hạn chế về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí còn chưa kịp thời, chưa nghiêm.

Đối với lĩnh vực ngân hàng, việc hoàn thiện pháp luật về cơ cấu lại tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu còn chậm. Còn thiếu chính sách ưu đãi, khuyến khích nhà đầu tư tham gia xử lý tài sản bảo đảm và mua bán nợ xấu. Việc tìm kiếm, đàm phán ngân hàng thương mại nhận chuyển giao bắt buộc đối với ngân hàng yếu kém còn gặp nhiều khó khăn.

Đối với lĩnh vực Công Thương, việc ban hành Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia, Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia, Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hoá chậm so với yêu cầu của Nghị quyết số 134/2020/QH14. Cơ chế giá bán lẻ điện chưa đồng bộ với thị trường điện; cung - cầu điện vẫn còn bất cập. Chưa cân đối được nguồn vốn và tháo gỡ vướng mắc để thực hiện Chương trình “Cấp điện nông thôn miền núi và hải đảo giai đoạn 2021 - 2025”. Nhiều dự án thủy điện chưa chấp hành các quy định về xây dựng, quy hoạch, môi trường. Chưa ban hành bộ tiêu chí để xác định sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam theo yêu cầu của Nghị quyết số 134/2020/QH14. Tình trạng hàng giả, hàng nhập lậu còn diễn biến phức tạp. Việc bố trí, huy động các nguồn lực phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ còn chưa tương xứng với vai trò, nhu cầu và tiềm năng phát triển.

Đối với lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, một số Quy hoạch ngành quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 trong lĩnh vực nông nghiệp chưa được ban hành. Một số chỉ tiêu trong Bộ tiêu chí về nông thôn mới chưa phù hợp với từng địa phương, vùng, miền. Số hợp tác xã nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, công nghệ số còn thấp. Việc sắp xếp, chuyển đổi các công ty nông, lâm nghiệp còn chậm so với yêu cầu của Nghị quyết số 134/2020/QH14.

Đối với lĩnh vực xây dựng, chưa ban hành Quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Việc phát triển đô thị thông minh, bền vững còn hạn chế. Thị trường bất động sản, nhà ở còn khó khăn, vướng mắc về thủ tục pháp lý, quỹ đất và nguồn vốn. Giá nhà ở còn ở mức cao so với thu nhập của người dân. Chưa ban hành đủ 12 bộ quy chuẩn kỹ thuật quốc gia theo yêu cầu của Nghị quyết số 75/2022/QH15.

“Đối với lĩnh vực giao thông vận tải, tiến độ lập, thẩm định, phê duyệt, giải phóng mặt bằng, triển khai thi công và đưa vào khai thác của một số dự án còn chậm. Nguồn cung vật liệu cho các dự án giao thông lớn rất khan hiếm, khó khăn. Việc xử lý khó khăn, bất cập dự án BOT chưa đạt tiến độ theo yêu cầu của Nghị quyết số 62/2022/QH15. Công tác quản lý, bảo vệ kết cấu hạ tầng và hành lang an toàn giao thông còn bất cập. Các “điểm đen”, điểm tiềm ẩn nguy cơ tai nạn giao thông chưa được xử lý dứt điểm”, Tổng thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường cho biết.

Tác giả: Thu Trang

Nguồn tin: Báo Tin tức

BÀI MỚI ĐĂNG

TOP